Viêm cổ tử cung (chẩn đoán và điều trị)

Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.
Viêm cổ tử cung phải được phân biệt với lộ tuyến của biểu mô trụ cổ tử cung hay gặp ở phụ nữ trẻ. Viêm cổ tử cung có đặc điểm là đỏ mọng ở cổ tử cung, có mủ, thường có vết máu ở trong khí hư và cổ tử cung di động khó. Viêm nhiễm có thể xảy ra sau rách cổ tử cung do để hay sẩy thai hoặc có thể do mầm bệnh lây theo đường tình dục như Neisseria gonorrhoeae, chlamydia hoặc virus herpes (biểu hiện bàng những nốt phỏng nước hay ổ loét ở cổ tử cung trong viêm nhiễm herpes nguyên phát). Nếu chất tiết dịch từ ống cổ tử cung là chất nhầy mủ màu vàng và soi dưới kính hiển vi khô phóng đại lớn trên mỗi kính trường có từ 10 bạch cầu đa nhân trở lên thì gợi ý nghĩ đến chlamydia.
 
Viêm cổ tử cung có nhầy mủ là một chỉ báo vô nghĩa cho cả nhiễm lậu và nhiễm chlamydia và hơn thế nữa có giá trị chỉ báo dương tính thấp. Điều trị kháng sinh phỏng chừng trong các truờng hợp viêm cổ tử cung chảy mủ nhầy không được chỉ định trừ khi đang có tỉ lệ mắc cao của N. gonorrhoeae hoặc chlamydia trong quần thể. Sau 3 tháng điều trị, ước chừng 20% bệnh nhân còn có chảy mủ dai dẳng hoặc tái phát ở cổ tử cung, không rõ là bị lại hay bị tái nhiễm. Có thể liên quan đến lộ tuyến cổ tử cung và phản ứng viêm do các tế bào trụ tiếp xúc với môi trường âm đạo ở xung quanh.

Bài viết khác